Chẳng hạn, người cổ đại đã phân biệt rõ ràng, những gì con người có thể cảm nhận bằng giác quan, những gì là tưởng tượng với những gì họ có thể hiểu. Tác giả có thể dùng dấu trích dẫn hoặc chữ in nghiêng để đánh dấu các từ đó giúp người đọc dễ phát hiện; hoặc hướng sự chú ý của độc giả vào từ đó bằng cách đề cập các nghĩa khác nhau của từ và chỉ rõ cách dùng trong những tình huống cụ thể; hoặc tác giả có thể nhấn mạnh bằng cách định nghĩa vật được gọi tên bằng từ đó. Sự phân biệt này có vẻ khác lạ.
Kiểu tiểu sử này ngày nay ít được viết nhưng chúng từng rất phổ biến một thời. Sách tham khảo cũng phải được sử dụng một cách nghệ thuật. Một trí óc không được kích thích bằng những câu hỏi hay tồn tại nhưng chúng ta phải nhìn theo cách nhìn của trẻ em, thắc mắc như cách trẻ em thường làm và hỏi như chúng hỏi.
Không chỉ nhà thơ hiện đại mới khó đọc. Nhờ sự đồng tình đó, người đọc có thể nhìn thấu được ngôn ngữ người viết đã sử dụng để thể hiện ý tưởng. Mỗi động tác đều đòi hỏi bạn chú ý cao độ khi thực hiện.
Yêu cầu thứ hai khó hơn rất nhiều, đó là bạn phải biết được cuốn sách nào nhìn chung nên đọc. Trước khi hoàn tất bước này, bạn nên nắm vững đề tài và có thể dừng lại chốc lát để xếp cuốn sách vào một ngăn phù hợp trong tâm trí bạn nếu muốn. Đây cũng chính là vấn đề của môn toán học.
Nhưng các câu hỏi của trẻ em thì không hạn chế ở những điều mà một cuốn bách khoa toàn thư có thể trả lời. Chỉ khi nào bạn không đồng tình hoặc không thể đưa ngay ra lời đánh giá phê bình, chúng ta mới cần triển khai một số bước tiếp theo. Nhưng điều đó chỉ thể hiện sự sở hữu về mặt tài chính đối với cuốn sách.
Những cảm giác khi đọc cuốn sách mách bảo bạn là bạn không cần đọc lại nữa. Đôi khi, một cuốn sách liên quan và bị phụ thuộc về mặt ý nghĩa vào nhiều cuốn sách khác vì chúng cùng chung tác giả. Điều này đúng trong khuôn khổ những giới hạn về khả năng mà chúng tôi đã đề cập trước đó.
Thực tế những triết gia giỏi nhất cũng không làm được điều này. Để biết sự thật, ta phải đọc tất cả các thông cáo, hỏi những người từng ở đó và cố gắng nhận thức được vấn đề một cách sáng suốt từ mớ thông tin lộn xộn đó. Khi đó, chân lý hay giải pháp cho vấn đề lại có trong cuộc thảo luận theo trình tự nhiều hơn là có trong bất cứ chuỗi nhận định hoặc khẳng định nào về nó.
Nhưng nếu bạn hỏi một cuốn sách, thì chính bạn phải trả lời câu hỏi, tức là bạn phải tự suy nghĩ và phân tích. Nếu mọi nhận định đều phải chứng minh thì sẽ không có dẫn chứng để khẳng định một vấn đề nào nữa. Những cuốn sách như vậy thường khá hay mặc dù không có độ tin cậy cao như tiểu sử cuối cùng.
Nếu như vậy, ta lại không còn việc gì để làm vì sự nhất trí của các tác giả đã đủ để tháo gỡ vấn đề. Ở khả năng thứ hai, mỗi từ có thể dùng để diễn giải nhiều thuật ngữ. Sự khúc triết và trật tự của văn phong này được những người có tư duy rõ ràng ưa thích, nhưng đó không phải là nét quan trọng nhất trong cách tranh luận của Thomas Aquinas.
Nội dung (hay cốt truyện) của thơ trữ tình thường là những trải nghiệm chứa đựng nhiều cảm xúc, trong khi cốt truyện của tiểu thuyết và kịch thường phức tạp hơn với nhiều nhân vật, nhiều hành động và các mối liên hệ chằng chéo giữa các nhân vật cùng những cảm xúc khác nhau của từng người. Nó không hướng tới kết quả nào khác ngoài nó. Có thể coi việc nêu ví dụ là một cách tốt để giải thích đọc đồng chủ đề là như thế nào.