Tuy vậy, chúng tôi có thể nhắc đến nguyên tắc chủ đạo của Plato là hội thoại về các chủ đề triết học có lẽ là hoạt động quan trọng nhất trong các hoạt động của loài người. Nhưng tri óc con người không phải là một tấm gương trong, không phải là một vật phản chiếu hay một bộ lọc tốt khi thực tế soi rọi qua đó. Ai sử dụng sách thực hành cũng phải áp dụng những quy tắc đó cho các trường hợp cụ thể, do đó phải tập đưa ra những đánh giá về những gì đã làm.
Aristotle cho rằng đoạn trên đây chính là cốt lõi của câu chuyện, phần còn lại chỉ là các tình tiết cụ thể. Tính thống nhất trong tác phẩm Ethics (Đạo đức học) của Aristotle có thể được trình bày như sau: Đây là những từ được dùng để gọi tên các thực thể hình học mà Euclid đã định nghĩa.
Những thói quen này vừa gây lãnh phí thời gian, vừa làm giảm tốc độ đọc. Là một độc giả không chuyên, bạn không cần đọc sách khoa học để trở thành uyên bác trong lĩnh vực đó mà chỉ cần đọc để hiểu lịch sử và bản chất khoa học. Sự thống nhất trong cách sử dụng từ ngữ là điều kiện không thể thiếu để có thể đồng ý hay không đồng ý với những vấn đề được đề cập đến.
Một cuốn sách có thể đem lại cho bạn những cách nhìn nhận hoặc tư duy mới mẻ. Quy tắc này được áp dụng cho cả loại sách hướng dẫn. Nên nhớ rằng bản thân từ ngữ không tự viết nên chính nó.
Tác giả lặp đi lặp lại rằng đức hạnh là điểm trung gian giữa hai đối cực sự thiếu hụt và sự vô độ. Nhưng những câu hỏi phía trên cũng không thừa vì có rất nhiều yếu tố khoa học xã hội trong các cuốn tiểu thuyết đương đại, và cũng không ít yếu tố hư cấu trong một tác phẩm về xã hội học khiến chúng ta khó có thể phân biệt. Cụ thể, cái tinh tuý của một bài thơ hầu như không nằm ở dòng đầu tiên, thậm chí trong cả khổ thơ đầu.
Sự hướng dẫn diễn ra khi một người dạy một người khác thông qua lời nói hay bài viết. Nhưng ít nhất nó cũng giúp bạn khởi đầu việc đọc cùng chủ đề. Ví dụ các câu hỏi mang tính lý thuyết sau: Vấn đề đó có tồn tại không? Nó thuộc loại nào? Tại sao nó tồn tại? Nó có thể tồn tại trong điều kiện nào? Nó phục vụ mục đích gì? Hậu quả do sự tồn tại của nó gây ra? Những thuộc tính đặc trưng của nó là gì? Mối liên hệ giữa nó và những vấn đề khác cùng loại hoặc khác loại như thế nào? Nó sẽ diễn biến ra sao? Hoặc những câu hỏi mang tính thực hành như: Nên tìm kiếm những mục tiêu nào? Lựa chọn phương tiện nào cho một mục đích cụ thể? Phải làm gì và theo trình tự nào để đạt được mục đích nhất định? Trong điều kiện hiện tại, làm thế nào là đúng hoặc tốt hơn nên làm gì? Trong hoàn cảnh nào thì làm việc này tốt hơn làm việc kia?
Đúng là có một số bài như vậy. Và các triết gia chuyên nghiệp như các nhà khoa học thì không quan tâm đến quan điểm của ai khác ngoài quan điểm của các chuyên gia. Thông thường, trẻ em có thể thành thục bốn cấp độ đọc sơ cấp với sự giúp đỡ của các giáo viên.
Thuyết thần học tự nhiên là một bộ phận của triết học, là chương cuối cùng trong thuyết siêu hình. Có lẽ không có quy tắc tu từ tuyệt đối nào. Ông tường thuật lại nhiều ví dụ về những thí nghiệm đặc biệt mà chỉ những người quan sát cẩn thận và được đào tạo bài bản mới có thể hiểu được.
Theo cách hiểu đó, hoạt động giao tiếp chẳng đem lại lợi ích gì cho việc nâng cao kiến thức. Tuy nhiên, việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Ở một chừng mực nào đó, tình trạng tương tự cũng xảy ra đối với sách triết học.
Cấu trúc đó có thể hay hơn hoặc tệ hơn đề cương do bạn lập ra. Đây là một hình phạt khủng khiếp vì đã có những bằng chứng cho thấy nó là một căn bệnh dẫn đến chết người. Nhưng triết học không hạn chế ở những câu hỏi lý thuyết.